Tru Di tam tộc là gì và Tru Di cửu tộc là gì?
Blog

Tru Di tam tộc là gì và Tru Di cửu tộc là gì?

hktc.info xin giới thiệu bài viết

“Tam thiên” và “Su cửu tộc” trong lịch sử phong kiến ​​Việt Nam

Trụ di là diệt. Ba gia đình là gia đình cha, gia đình mẹ và gia đình vợ. Chín gia tộc và chín thế hệ, cho đến Taizu, cho đến các vị thần huyền thoại. Đây là một hình phạt khủng khiếp dành cho những kẻ phản quốc dưới chế độ quân chủ (Đào Duy Anh, Từ Điển Hán Việt).

Tuy nhiên, nhìn vào các bộ luật của Hund và Gialong, chúng ta không thấy hình phạt dành cho tru di cửu tộc. Nguyễn Trãi, theo Đại Việt sử ký toàn thư, đã phải bị ba đời thảo phạt.

Tru di tam tộc tức là ba dòng họ đã xử tử tù nhân, gồm: họ cha, họ mẹ và họ vợ (hoặc chồng).

hình minh họa.

Trù di Cửu tộc hành quyết, giết cả chín tộc gồm: Cao (ông nội), tang (ông cố), tổ (ông nội), Khoa (cha), thừa tự (mình, tội nhân), tử tử), Tuân (cháu). , Tang (chắt), Xuân (chích)

Tru (tiếng Trung: Zhu, phát âm là zhū) và di (tiếng Trung: yi, phát âm là yí) trong nhóm tru di 3, và nhóm tru di 9 đều có nghĩa là giết.

Nếu một người phạm tội và bị kết án trong ba bộ lạc, tất cả thành viên của ba bộ lạc, từ trẻ đến già, sẽ bị giết. Vì vậy, trong lịch sử, từng xảy ra vụ án liên quan đến ba chủng tộc, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người chết cùng một lúc, cho dù là họ hàng xa, hung thủ đều bị xử tử.

Theo từ nguyên học (Từ điển tiếng Trung xuất bản năm 1915), có ít nhất bốn cách giải thích khả dĩ cho hai bộ lạc:

1. Cha mẹ, anh em, vợ con là tam tộc (cha mẹ, anh em, vợ con ba tộc).

2. Ba dòng phụ hệ, mẫu hệ và phu nhân (paternal, matrilineal, Fiat, and wife).

3. Cha, con, cháu (=hậu duệ) là tam tộc (cha, con, vinh ba tộc).

4. Cha, anh trai và em trai thuộc ba bộ lạc (Zikong, Jikonde và Tukonde sáu hoặc ba bộ lạc).

Do có nhiều cách giải thích cho sự việc trên, ngay cả vụ án Nguyên Tí năm 1442, người đời nay cũng có những cách hiểu khác nhau.

Tào Huệ Giáp khi dịch quyển thứ năm của Đại Việt sử kí toàn thư: “Ngày 16 (tháng 8 năm Nhâm Tuất), đao phủ Nguyễn Thị và thê thiếp Nguyễn Thị Lộ bị giết, ba đời đều bị giết. “. Tất nhiên, ba đời chỉ có thể là cha con (tương ứng với nghĩa thứ ba của từ nguyên).

Phan Huy Lê viết: “(…) Nguyễn Trãi bị bôi nhọ, bị tù đày cuối cùng cũng thoát nạn”. Tam gia, theo cách hiểu phổ biến, là họ của cha, mẹ và vợ (tương ứng với nghĩa thứ hai của từ nguyên), tất nhiên nó chắc chắn quan trọng hơn Tam thị, vì Tam thất chỉ thuộc một họ.

“Tam tộc Sở” và “Cửu tộc Sở” trong Lịch sử phong kiến ​​Trung Quốc

Trong xã hội Trung Quốc cổ đại, hình phạt của các hoàng đế Nho giáo dựa trên các mối quan hệ gia đình truyền thống. Theo quan niệm của Trung Quốc thời phong kiến, hình phạt này thường được áp dụng cho những tội nặng nhất, bao gồm tội “tà dâm” (làm phản, thông đồng với kẻ thù), “gian phu” (nói dối vua, xúc phạm hoàng thất). ), “âm mưu phản quốc”, “tội ác ghê tởm và chết người”. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, hình phạt này đã bãi bỏ bệnh dịch, loại bỏ ảnh hưởng của tội nhân và những người thân yêu của họ, đồng thời củng cố quyền lực tối cao của hoàng đế.

Người ta nói rằng hình phạt của Hoàng đế Zhou bắt nguồn từ triều đại nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Vào thời điểm đó, hình phạt này được gọi là Erdian, và tên tội phạm bị xử tử cùng với các con của hắn. Cuốn sách “Wan Jia” ghi lại rằng trong trường hợp của Zhou Tianzi vào thời Xuân Thu, Duẩn Gu, Bộ trưởng của Tunguo lúc bấy giờ, đã được sự đồng ý của sở cảnh sát và tấn công và tiêu diệt toàn bộ giáo phái Cong Biwan. con sóc. Sự cố này là nguyên mẫu của bộ phim truyền hình nổi tiếng “Một ngàn trẻ mồ côi” do nhà văn thời nhà Nguyên Xiang Jijun tạo ra. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, giai thoại này có thể là hư cấu.

Đến đời Tần, phạm vi hình phạt này được mở rộng thành “tam tộc” (ba dòng), “ngũ tộc” (năm dòng) và “thất tộc” (bảy dòng). Theo thời gian, hình phạt này đã bị các vị thần bãi bỏ, sau đó được khôi phục và mở rộng thành “Jiuye” (Jiutang) vì hình dạng của hoàng đế. Ngay cả trong triều đại nhà Minh và nhà Thanh, ông đã ra lệnh ám sát “Thập phái” của Tietong, giết chết tổng cộng 873 người, không chỉ 9 thành viên Tietong, mà ngay cả người thân, bạn bè và đệ tử của ông cũng bị giết, và ông bị buộc tội cấu kết với các trường khác. Mẫu hàng 10.

Có nhiều ý kiến ​​khác nhau về định nghĩa “tam tộc”. Tục ngữ có câu “tam gia” là “cha mẹ” (cha mẹ), “huynh đệ” (anh em), “phu thê” (vợ con). Một cách nói khác là “tam tòng” là “cha”, “mẹ” và vợ. Còn có câu nói “tam gia”, tức là “phụ” (cha), “con” (con trai), “tôn” (cháu).

Còn về “Cửu Trộm”, theo Chu Su, Cửu Gia ám chỉ chín loại người có quan hệ mật thiết với bản thân phạm nhân: cha mẹ, anh chị em và con cái.

Dì; các con và chị; cháu trai (bốn người trên là phụ hệ); ông nội; bà nội; cô ruột (ba người này đều thuộc họ mẹ); bố vợ;

Vào thời Tần, Hán, Cửu Thạch, dựa theo quy tắc Nghiêu Thuấn đổi lấy xiềng xích, tức là phụ quyền, huyết thống, nền tảng, từ ta đến 4 đời, từ một mình ta đoạt được 4 đời, tổng cộng là Thế hệ thứ 4. Cộng với 9 thế hệ, danh sách như sau:

Thái tổ: Hình kỵ; Tổ tiên: Ông cố; Tổ: Ông nội; Con: Cha; Theo tù: anh em, anh em họ cùng họ, anh em họ cùng họ Nhân), đến 3 đời. kết hợp với nhau (ba anh em ruột thịt, tức là những người cùng huyết thống); con cháu: con trai và con gái; đáng kính: cháu trai; downton: chắt; thần bí: hiếm khi.

Nhưng cho đến ngày nay, mọi người vẫn cho rằng việc lấy và hiểu theo chín họ của nhà Chu là bình thường.

Cảm ơn bạn đã xem qua bài viết của hktc.info

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *